Tâm
Tịnh Quốc Độ Tịnh .....
Tâm
lý học thường kết luận rằng “Suy tư của bản thể là nguyên
nhân khởi đầu của một hành động”, nên
ai cũng có năng lực và hành động riêng của mình. Đứng về mặt
thế gian đây là một phương thức để con người học hỏi, mổ xẻ,
phân tích, khi họ đã gặp, đang gặp phải những hiện tượng, kết
quả của bản thân, hoặc những cá nhân trong xã hội cần đến sự
cố vấn, giải quyết về mặt tinh thần ở đời sống. Dòng suy tư
là biển cả có tính chất biến thái, đa dạng, trước sau không
đồng thể, ngược lại quan niệm về tâm lý của con người hoàn
toàn dựa trên những hành động kinh nghiệm góp nhặt từ muôn
thuở, rồi con người lại dùng trí phân biệt để kết luận “ thương-ghét
hoặc đúng-sai “. Nhưng suy tư vẫn là một dòng tư tưởng tiếp
diễn không ngừng trong dòng sanh diệt, kẻ đang suy tư mang
tâm hồn đẹp đẽ, hành động và khung cảnh trong tầm mắt khối
óc của người nầy đẹp đẽ, nếu gặp một dòng suy tư điên đảo thì
hành động và cảnh vật của người nầy đều nằm trong điên đảo.
Sự kết tụ bằng yếu tố tâm và sinh qua ngưỡng cửa nhận
thức đã trở thành một định nghiệp, có khả năng lôi kéo con
người trôi lăn trong vòng sanh tử. Suy tư là một kết hợp của
niệm khởi, và niệm khởi nầy khi được chúng ta nuôi dưỡng thì
nó chính là một hạt giống đã gieo vào trong dòng đời sanh diệt,
đã sanh diệt thì đẹp xấu, cao thấp, từ cõi thấp như địa ngục
đến cõi trời vô sắc giới cũng chỉ là giả tuớng do nhân duyên
kết tụ, khác biệt là niệm ác chúng sanh đọa vào đường dữ, niệm
thiện chúng sanh được thác sanh vào cõi lành, phước báo hoặc
ác báo tùy ở nơi nhân người tạo tác.
Trên phương diện khách quan, nhân loại
cho rằng con người được hình thành do tinh cha huyết mẹ, khác
biệt về hình tướng, đời sống, tánh tình của con người, thì
không ai dám quả quyết là nguyên nhân nguồn gốc từ đâu để có?
Thế giới văn minh, khoa học tiến bộ, cũng không giải thích
được tại sao có sự dị biệt nầy, nên con người đành chấp nhận
đời sống cá nhân, gia đình như một dòng định mệnh đã được ban
bố và sắp đặt sẵn bởi đấng tối cao vô hình. Thật ra đấng tối
cao nầy chính là “ Ta “ , vì “ ta ” hôm nay là nhân vun trồng
từ tiền kiếp. “ Ta “ tương lai tức nhân vun trồng của đời nay.
Lời Phật dạy ở Pháp Cú Kinh rằng: “Dục tri tiền thế nhân, kim
sinh thọ giả thị. Dục tri lai sinh quả, kim sinh tác giả thị.”
Muốn biết “ Ta “ trong tiền kiếp đã gieo nhân gì, thì hãy nhìn
cái quả hiện tại, và muốn biết “ Ta “ đời sau như thế nào hãy
nhìn vào cái mình đang vun trồng ngày hôm nay. Lời nói hơn hai ngàn năm trăm năm nhưng vẫn tồn tại, không
bị mai một bởi thời gian, không gian. Suy gẫm câu nầy chúng
ta không còn gì để thắc mắc về sự không công bằng của đời sống
mình và nhân loại. Cội nguồn sanh tử hay nguồn gốc của vạn
pháp do bởi tâm niệm của chúng sanh mà kết cấu, bởi thế kẻ
làm người ắt phải biết mình đã vun trồng hạnh nhân thừa trong
tiền kiếp. Người tu Thập thiện tạo hạnh Thiên thừa đến khi
mạng chung thọ sanh ở các cõi trời, kẻ không tu hành sống theo
tập khí thói quen kết cấu từ muôn thuở, thói quen nầy sẽ sống
dậy và biến thành hành động tạo nghiệp, tùy vào nghiệp thiện
hay ác để thọ sanh trong kiếp vị lai. Kẻ thượng ác đi vào đường
địa ngục, kẻ trung ác đi vào đường ngạ quỷ, kẻ hạ ác làm thân
súc sanh. Bởi tâm niệm mà chúng ta phải mãi trôi lăn trong
vòng lục đạo sanh tử, cứ hụp lặn trong biển đời đau khổ, ta
đang ở trong gia đình quý phái sang trọng, không có nghĩa không
có ngày tàn tạ, tàn tạ không phải chỉ sanh, già, bệnh, chết,
mà ngay khi đang sống
trong nhung lụa thì ngày mai ta cũng có thể trở thành một người
nhà tan cửa nát, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Vật chất
phương tiện như cơ khí, điện tử, y khoa, kể cả hãnh diện lớn
lao của nhân loại như thành quả vượt khỏi không gian tìm kiếm
thế giới bên ngoài, những công cụ giết người như máy bay, bom
đạn, v..v.. tất cả cũng từ tâm chúng ta khởi niệm rồi hành
động bước theo, và kết quả là những gì chúng ta muốn có. Nếu
ý niệm khởi dậy ở người đạo đức kết quả sẽ đem đến sự an lạc
cho nhân loại, nếu ý niệm kết từ một tâm địa độc ác, kết quả
sẽ là niềm thương đau cho thế giới loài người, điều nầy đã
chứng minh được một cách rất cụ thể qua lịch sử thăng trầm
chuyển biến của nhân loại.
Một thế giới muôn màu muôn sắc của khổ
đau, nên chư vị Bồ tát đã hoá thân đến, kẻ thì dùng trí, kẻ
thì dùng đức, kẻ đang thuyết pháp giảng kinh để hoá độ. Quý
Ngài không che hình dấu tướng nhưng chúng ta không thấy được,
bởi sáu căn của chúng ta đang bị tâm không thật sai khiến,
tâm nầy là một linh hồn đã trôi lăn triền miên trong đau khổ
sanh tử, một đời sanh ra là một đời chồng chất thêm tham, sân,
chấp ngã. Kinh Thập Thiện, Phật dạy rằng: “ Nhất niệm sân tâm
khởi, bách vạn chướng môn khai “, chỉ một khởi niệm sân mà
kết quả là muôn ngàn chướng ngại nẩy sanh, huống hồ chúng ta
đã bao nhiêu đời nổi trôi trong lục đạo, niệm sân đã chồng
chất còn hơn số cát sông Hằng. Vấp ngã quá nhiều nhưng chúng
ta vẫn sống trong hoài nghi chấp ngã, chết cũng mang theo chấp
ngã hoài nghi, đời nầy qua kiếp nọ, loại độc nầy đã tích tụ
trở thành một khối vô minh che đậy cái thật có của chúng ta,
chúng ta không phân biệt được thực hư, mình không biết mình
là ai, sống trong cái giả tướng, giả tánh, tham sân chấp
ngã nên chùa chiền, thánh tăng, chư vị Bồ tát có hiện hữu thì
chúng ta cũng không thấy và biết được. Chuyển hóa là do tâm
niệm của chúng sanh, các Ngài khai thị chúng ta, dùng Pháp,
dùng phương tiện, chỉ chúng ta con đường trí tuệ nhưng chúng
ta không chịu quay lại thì dù Pháp Phật có nhiệm mầu, Bồ tát,
Thánh tăng đang ở bên ta cũng đành chịu.
Khi niệm dấy khởi mà chúng ta không nhìn
lại để biết nó là hư vọng, chắc chắn rằng chúng ta sẽ bước
vào con đường tạo nghiệp, còn niệm tức còn pháp, vô niệm tức
pháp không sanh, đây cũng là then chốt để Thượng tọa Minh được
khai ngộ khi cầu Pháp với Lục Tổ, câu nói thật đơn giản “ Không
nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng
tọa Minh? “, Thượng tọa Minh đã bừng tỉnh , nhận ra được tâm
chân thật hằng tri hằng giác mà bao ngày bị vùi chôn bởi những
vọng niệm sanh diệt. Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng dạy rằng
người tu là phải quay lại nhìn mình, câu nầy ai cũng biết nhưng
kẻ thật sự quay lại nhìn mình lại có mấy ai. Người xưa cũng
đã nói: “ Các nhân tư tảo môn tiền tuyết, bất quán tha nhân
ốc thượng sương.” Tuyết ngập đầy nhà mình không lo quét dọn,
cứ lo chỉ trích nhà thiên hạ phủ sương. Tạo hóa cho mình đôi
mắt, nhưng điều đáng buồn là khi nhìn mặt mình thì phải trông
cậy đến tấm gương, đôi mắt xác thịt hòa lẫn với tham dục hư
dối ở nơi ta, nên cuộc đời tu hành thường
gặp phải gian truân. Quay lại nhìn mình tu hành thì chúng ta
phải sử dụng đôi mắt trí tuệ, chỉ có mắt trí tuệ mới thấy và
nhận được ta. Ví như một kẻ đang du hành mà đường đi không
biết, lạc đường chẳng hay thì ngày nào mới quay trở lại. Cuộc
hành trình điều đầu tiên là phải xác định mục tiêu mình muốn
đến, nếu chưa biết đường đi phải kiếm bản đồ, đây là một tiến
trình nhìn lại mình để thấy và biết về mình, mình đang ở đâu,
đang muốn về đâu, phương tiện nào sẽ phụ trợ thích hợp cho
chuyến hành trình mình muốn. Phật nói đến tám vạn bốn ngàn
pháp môn, vì Ngài biết được căn cơ của chúng sanh khác biệt,
kẻ thấp người cao, kẻ trí người mê, các Pháp Ngài nói tuy nhiều
nhưng chung quy chỉ là một, đó là phương tiện để đưa chúng
ta tìm lại cái chơn tâm hằng hữu ở nơi ta. Pháp Phật, ý Tổ,
lời Thầy, nhưng điểm then chốt vẫn ở nơi mình, chỉ có mình
mới có đủ tư cách quyết định quá
khứ, hiện tại, tương lai của mình. Ngài Nam Sơn dạy rằng khi
“Ba nghiệp khởi lên do tâm hư vọng sai khiến, trước lấy giới
luật bắt, kế lấy thiên định mà trói, rốt sau lấy trí huệ mà
sát, thứ lớp như vậy mới được”. Điều chủ chính của chúng ta
trước tiên phải thấy được ta đang bị ba nghiệp bủa vây, sau
đó mới tùy duyên tìm kiếm phương tiện thích hợp cho mình. Tịnh
độ, Thiền tông, Mật tông, phương cách nào chăng nữa cũng phải
đến chỗ vô niệm mới diệt được mầm mống sanh diệt của vạn pháp.
Tôi được phước báu nhân duyên nghe và
đọc được một số kinh sách giảng giải của Hòa Thượng Trúc Lâm,
gần một năm trước mới được phúc duyên học phương cách ngồi
thiền tại Ni viện Quang Chiếu. Bước đầu học và hành thiền thật
lắm gay go, như mắt đau, nước bọt chảy, đáng buồn hơn nữa là
niệm vẫn khởi, tâm vẫn đảo điên, lắm lúc chỉ ngồi chưa đầy
mười lăm phút mà tưởng như một ngày đã trôi qua. Tôi thắc mắc
tại sao loạn tưởng cứ mãi dấy lên trong khi hành thiền, đến
một chiều kia sau giờ làm việc về nhà, tôi đã tụng một biến
kinh, điều khác biệt là chiều nay tôi tụng kinh không phân
tâm như những lần trước, khi tụng đến câu “Tội từ tâm khởi
đem tâm sám. Tâm tịnh tội liền tiêu. Tội tiêu Tâm tịnh mới
thật là chơn sám. Nam mô cầu sám hối Bồ Tát Ma Ha Tát”. Những
câu sám nguyện nầy đã là một cơ duyên cho tôi bừng tỉnh, tôi
thấy được tội lỗi từ tâm, do ở tâm mình, muốn diệt trừ cũng
phài bắt đầu từ tâm, và cũng có nghĩa là tâm tịnh tội liền
tiêu. Nhịp cầu nầy đã cho tôi cảm nhận về thiền sâu thêm một
bước
nữa. Tôi hiểu rằng Tịnh độ, Thiền tông hay bất cứ một pháp
môn nào mà Phật đã dạy vốn là một, vì tất cả đều tiến đến một
cứu cánh là tâm tịnh, niệm không khởi tội lỗi và nghiệp chướng
tự nó tiêu trừ, vì không sanh thì có đâu để diệt. Những ngày
hành thiền kế đến tôi hoàn toàn theo lời dạy của Hòa Thượng
và quý Cô ở Quang Chiếu, đừng ngăn chận vọng niệm mà chỉ quán
rằng niệm khởi là hư dối, là sanh diệt không thật, từ đây khi
hành thiền tôi thấy thoải mái an ổn hơn, thời gian tọa thiền
không còn dài lê thê như trước nữa. Tôi nhận ra tôi là chủ
nhà và niệm là mấy tên trộm đã vào nhà hoặc đang rình rập,
kẻ có ý đồ đang bủa vây hoặc rình rập gia sản quý báu của mình,
nhưng mình thấy và biết được âm mưu và hành động của họ, tất
nhiên họ phải chùn chân, tránh né. Càng hành thiền tôi lại
càng thấy được tôi, không còn là một chủ nhà bình thường, mà
là quốc vương của một nước,
quốc độ của tôi tuy vẫn còn trong cảnh đao binh, loạn lạc,
nhưng tôi luôn có một niềm tin, khi đã thấy được xứ sở mình
không yên ổn, và cũng đã biết ở đâu có loạn lạc, ai bạn ai
thù, không còn lẫn lộn như xưa nữa. Chắc chắn sự an lạc chỉ
là thời gian ngắn hoặc dài ở ngay hiện tại, bằng không đây
cũng là một hạt nhân thanh tịnh cho đời vị lai. Nhất định rằng
như Pháp Phật, ý Tổ, lời Thầy đã dạy: “Tâm tịnh thì quốc độ
tịnh”.
Nguyen Hoa – Nguyen Minh
|