Cái không phải mình mà lầm nhận là
mình, trong kinh Phật gọi là "Nhận giặc làm con", tai họa không thể lường được. Cho nên bao nhiêu kinh điển, bao nhiêu pháp tu,
đức Phật đều dạy xoay quanh cái trục "Chận đứng tâm suy nghĩ lăng xăng này". Tụng kinh phải nhiếp tâm, niệm Phật phải nhất tâm, tọa thiền phải định... Song
đặc biệt là Thiền tông, chư Tổ không dùng phương tiện để
đè bẹp, để ngăn chận nó, mà dùng trí biết rõ bản chất không
thật của nó thì nó hết tác quái. Chính câu "Ðem tâm ra ta an cho" của Tổ Ðạt-ma đủ thể hiện ý nghĩa này.
"Biết đường vào" chưa
phải là kẻ đến nhà, phải trải thời gian lâu xa, ngài Huệ
Khả mới bạch với Tổ Ðạt-ma: "Từ đây trở đi con dứt hết các duyên." Tổ Ðạt-ma bảo: "Chớ rơi vào đoạn diệt." Huệ Khả thưa: "Không rơi." Tổ Ðạt-ma hỏi: "Con làm thế nào?" Huệ Khả thưa: "Con thường biết rõ ràng, nói không thể đến." Tổ Ðạt-ma dạy: "Ðây là chỗ truyền của chư Phật, chớ nên hoài nghi." Ðến đây mới thật là người về tới nhà, không còn nghi ngờ gì nữa.
Khi Tổ Ðạt-ma sắp tịch, hỏi lại chỗ
sở ngộ của các đồ đệ, đến lượt Huệ Khả, Ngài chỉ bước ra
đảnh lễ ba lạy rồi lui. Tổ Ðạt-ma nói: "Ông được phần tủy của ta." Ðến chỗ cứu kính không còn ngôn ngữ để trình bày, vì ngôn ngữ là phương tiện
tương đối, không thể diễn tả được cái chân thật tuyệt đối.
Từ đó ngài Huệ Khả được truyền y bát làm Tổ thứ hai ở Trung
Hoa.
Giới
Thiệu Tổ Huệ Năng (638 - 713)
Chỗ
sở ngộ của Tổ Huệ Năng là do nghe kinh Kim Cang Bát-nhã.
Sau khi được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn cho vào thất và nghe giảng
kinh Kim Cang đến đoạn Tôn giả Tu-bồ-đề hỏi: "Khi phát tâm cầu vô thượng chánh giác, làm sao an trụ tâm?" Phật đáp: "Chẳng nên trụ sắc, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm kia;
nên không chỗ trụ mà sanh tâm ấy." Ngài đại ngộ kêu lên: "Ðâu ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh! Ðâu ngờ tánh mình vốn không sanh diệt! Ðâu
ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ! Ðâu ngờ tánh mình vốn không
dao động! Ðâu ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp!" Ngũ Tổ bảo: "Chẳng biết bản tâm học pháp vô ích, nếu nhận được bản tâm mình, gọi là Trượng
phu, Thiên nhân sư, Phật..." Thế là Ngài được Ngũ Tổ truyền y bát làm Tổ thứ sáu.
Qua câu chuyện ngộ
đạo của Lục Tổ, chúng ta thấy từ lý Bát-nhã không cho sáu
căn dính mắc (trụ) với sáu trần là phát tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác, Lục Tổ không dừng ở chỗ không dính mắc,
mà nhảy vọt vào thể tánh thanh tịnh, bất sanh bất diệt của
chính mình. Chính thể tánh này gọi là Pháp thân hay Bản Lai
Diện Mục, đã có sẵn từ vô thủy nơi tất cả chúng ta. Thấy
tột chỗ này và sống được với nó là Ðốn ngộ, là Kiến tánh.
Bản thân Lục Tổ được như vậy, song khi dạy người Ngài cũng
có phương tiện.
Lục Tổ vì phương tiện
lập Tam vô: Vô Niệm làm Tông, Vô Tướng làm Thể, Vô Trụ làm
Bổn. Theo Lục Tổ giải: Ðối trên các pháp mỗi niệm không trụ,
tức là không phược, đây là lấy Vô trụ làm gốc. Ngoài lìa
tất cả tướng gọi là Vô tướng, hay lìa tướng tức là pháp thể
thanh tịnh, đây là lấy Vô tướng làm thể. Ðối trên các cảnh
tâm không nhiễm, gọi là Vô niệm (Kinh Pháp Bảo Ðàn, phẩm
Ðịnh Huệ). Không nhiễm các pháp, không kẹt các tướng, không
dính mắc các pháp, đây là chủ trương của Lục Tổ. Không nhiễm,
không kẹt, không dính, ngay khi tiếp xúc với sáu trần là
thiền định. Không phải chạy trốn cảnh trần, rồi sau tâm mới
an định như các lối thiền định khác.
Giới
Thiệu Sơ Tổ Trúc Lâm (1258 - 1308)
Vua
Trần Nhân Tông lúc còn làm Thái tử đã thông suốt Thiền tông
do sự giáo dục của Tuệ Trung Thượng sĩ. Sau khi bỏ ngôi đi
xuất gia, lấy hiệu là Hương Vân Ðại Ðầu-đà, Ngài hòa hội
các phái thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Ðường
đã truyền bá trên đất nước Việt Nam, lập thành phái thiền
Trúc Lâm Yên Tử. Ðây là phái thiền hoàn toàn Việt Nam. Ở
đây chúng tôi chỉ chắt lọc một vài nét nổi bật trong sự chỉ
dạy của Ngài để làm tiêu chuẩn, đó là bài kệ Hữu Cú Vô Cú:
Hữu cú vô cú
Ðằng khô thọ đảo
Cơ cá nạp tăng
Chàng đầu khái não.
Hữu cú vô cú
Thể lộ kim phong
Hằng hà sa số
Phạm nhẫn thương phong.
Hữu cú vô cú
Lập tông lập chỉ
Ðả ngỏa toản qui
Ðăng sơn thiệp thủy.
Hữu cú vô cú
Phi hữu phi vô
Khắc chu cầu kiếm
Sách ký án đồ.
Hữu cú vô cú
Hỗ bất hồi hỗ
Lạp tuyết hài hoa
Thủ chu đãi thố.
Hữu cú vô cú
Tự cổ tự kim
Chấp chỉ vong nguyệt
Bình địa lục trầm.
Hữu cú vô cú
Như thị như thị
Bát tự đả khai
Toàn vô bả tỷ.
Hữu cú vô cú
Cố tả cố hữu
A thích thích địa
Náo quát quát địa.
Hữu cú vô cú
Ðao đao phạ phạ
Tiệt đoạn cát đằng
Bỉ thử khoái hoạt
|
Câu có câu không
Bìm khô
cây ngã
Mấy kẻ nạp
tăng
U đầu sứt
trán.
Câu có câu
không
Thể bày
gió thu
Hằng hà
sa số
Va đao chạm
bén.
Câu có câu không
Lập tông
lập chỉ
Ðập ngói
dùi rùa
Trèo non
lội nước.
Câu có câu không
Chẳng có
chẳng không
Khắc thuyền
mò kiếm
Tìm ngựa
bản đồ.
Câu có câu không
Hồi hỗ hay
không
Nón tuyết
giày hoa
Ôm cây đợi
thỏ.
Câu có câu không
Tự xưa tự
nay
Nhìn tay
quên trăng
Ðất bằng
chết chìm.
Câu có câu không
Như thế
như thế
Chữ bát
mở ra
Sao không
nắm mũi.
Câu có câu không
Ngó tả ngó
hữu
Lau chau
mồm mép
Ồn ào náo
động.
Câu có câu không
Ðau đáu
lo sợ
Cắt đứt
sắn bìm
Ðó đây vui
thích.
|
Qua bài kệ này chúng ta thấy Ngài
phản đối cái chấp hai bên biểu trưng bằng Có và Không. Song
cái chấp hai bên có vô số loại: có không, phải quấy, hơn
thua, tốt xấu, thắng bại, hay dở, lành dữ v.v. và v.v. Chính
cái chấp hai bên là mầm tranh đấu, là nhân phiền não, kết
quả khổ đau không thấy chân lý.
Cho nên chín đoạn trong bài kệ này, Ngài vừa quở trách, vừa chỉ dạy rất đầy
đủ. Như đoạn một: "Mấy
kẻ nạp tăng, u đầu sứt trán", đoạn hai: "Hằng hà sa số, va đao chạm bén", đoạn ba: "Ðập ngói dùi rùa, trèo non lội nước", đoạn bốn: "Khắc thuyền mò kiếm, tìm ngựa bản đồ", đoạn năm: "Nón tuyết giày hoa, ôm cây đợi thỏ", đoạn sáu: "Nhìn tay quên trăng, đất bằng chết chìm", đoạn bảy: "Chữ bát mở ra, sao không nắm mũi", đoạn tám: "Lau chau mồm mép, ồn ào náo động", đoạn chín: "Cắt đứt sắn bìm, đó đây vui thích".
Ðoạn một và hai, Ngài quở người chấp
hai bên là tự chuốc khổ vào mình. Ðoạn ba và bốn, Ngài chê
kẻ chấp hai bên là dại khờ, chỉ nhọc nhằn luống công. Ðoạn
năm và sáu, Ngài trách những phương tiện tạm bợ mà người
vì cố chấp hai bên nên không thấy chân lý. Ðoạn bảy và tám,
Ngài chỉ thẳng chân lý ngay trước mắt như lỗ mũi nằm sẵn
dưới chân mày mà người ta không nhận, cứ lý luận ồn ào vô
ích. Ðoạn chín, Ngài nói ai dứt chấp hai bên mới thật vui
thích. Ngay đoạn chín này hẳn là chỗ Nhị Tổ trình kiến giải
bằng ba lễ mà không có một lời. Không kẹt hai bên làø căn
bản của Thiền tông, cũng chính là cốt tủy của Phật giáo.
Lại một bài kệ kết thúc bài phú "Cư
Trần Lạc Ðạo" của Sơ Tổ Trúc Lâm là cô đọng những gì Lục Tổ đã thấy và ứng dụng:
Cư trần lạc đạo thả tùy
duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Ðối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
|
Ở đời vui đạo
hãy tùy duyên
Ðói đến
thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà
có báu, thôi tìm kiếm
Ðối cảnh
không tâm chớ hỏi thiền.
|
Chỉ hai câu chót trong bài kệ cũng
đủ kết thúc chỗ sở ngộ và mục tiêu dạy tu hành của Lục Tổ
một cách kỳ diệu. Thấy hòn ngọc sẵn có trong nhà, chính là
chỗ Lục Tổ thốt lên "Ðâu ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh!..." Thiền là đối cảnh không tâm thì làm gì có niệm nhiễm, là vô niệm; không tâm
thì đâu kẹt cảnh bên ngoài, là lìa tướng tức vô tướng; không
tâm thì lấy gì để dính mắc, là vô trụ. Một câu kết này đã
bao gồm cả Vô Niệm, Vô Tướng, Vô Trụ hay Tông, Thể, Bổn của
Lục Tổ dạy. Thiền là đối cảnh không nhiễm, không kẹt, không
mắc, chính đây là chủ trương của Lục Tổ. Ngài Trúc Lâm Ðầu-đà
đã ứng dụng tuyệt vời chỗ thấy của Nhị Tổ, chỗ ngộ và hành
của Lục Tổ. Chúng ta là kẻ hậu học, tự hãnh diện ở Việt Nam
xuất phát một phái thiền trọn vẹn mang dấu ấn của chư Tổ
tiền bối và dung hội tài tình đường lối tu hành của người
xưa, làm kim chỉ nam cho hành giả Việt Nam chúng ta.
Dung
Hợp
Chúng
tôi dung hợp pháp tu của ba vị Tổ trên thành một lối tu cụ
thể như sau:
- Nơi Nhị Tổ, chúng tôi ứng dụng pháp
an tâm. Nghĩa là biết rõ tâm suy tưởng lâu nay là hư ảo,
không để nó đánh lừa, lôi dẫn chúng ta chạy theo trần cảnh,
nên nói "Vọng tưởng không theo". Mỗi khi nó dấy lên đều biết rõ như vậy. Một khi hành giả nhận diện bản chất
hư ảo của chúng thì chúng tự biến mất. Khi tọa thiền cũng
như lúc tiếp duyên xúc cảnh đều thấy rõ, không lầm chúng.
Ðến bao giờ được như Nhị Tổ nói "Ðoạn hết các duyên mà rõ ràng thường biết, nói không thể đến" là đạt kết quả.
Tuy nhiên vọng tưởng này không phải
dễ lắng, dứt cái này khởi cái khác liên miên không dừng.
Hành giả phải bền chí theo dõi, soi sáng mãi chúng mới từ
từ thưa dần. Nhận vọng tưởng hư ảo làm tâm mình là mê lầm,
biết vọng tưởng hư dối không thật là tỉnh giác. Lối tu này
là dùng "cái dụng của trí để phá si mê", chớ không có pháp gì dùng để đè bẹp, nên nói "pháp an tâm mà không có pháp". Khi hết si mê vọng tưởng lặng thì trí dụng cũng dừng, như trong mười mục chăn
trâu, khi trâu mất thì người chăn cũng không còn. Trí dụng
hết đối trị, liền hội nhập trí thể.
- Với Lục Tổ, chúng tôi ứng dụng sáu
căn không dính mắc sáu trần làm hướng tiến tu. Ðó là câu "Bất ưng trụ sắc sanh tâm..." trong kinh Kim Cang được Ngũ Tổ giảng cho Lục Tổ. Nhưng làm sao căn không dính
trần? Ðương nhiên phải dùng trí tuệ Bát-nhã quán chiếu, thấy
các pháp duyên hợp hư dối như huyễn như hóa. Vì thế trong
kinh Pháp Bảo Ðàn, sau phẩm Hành Do là đến phẩm Bát-nhã.
Nhờ trí tuệ Bát-nhã soi rọi thấy rõ các pháp duyên sanh,
không có chủ thể (vô ngã), không cố định (vô thường) nên
tâm không nhiễm trước sắc... do đó căn, cảnh không dính mắc
nhau. Căn, cảnh không dính mắc nhau là Vô Niệm, Vô Tướng,
Vô Trụ, đó là chủ trương của Lục Tổ.
Lại có một cách khác, nếu hành giả
kiến tánh như Lục Tổ, hằng sống với thể tánh bất sanh bất
diệt của mình thì còn gì bận bịu với vọng tưởng hư dối, với
sáu trần giả hợp. Ði đứng nằm ngồi không lúc nào rời tự tánh
chính mình. Ðược thế thì ung dung tự tại, nên nói "đói ăn khát uống".
- Ðến Sơ Tổ Trúc Lâm, trong bài kệ "Câu
Có Câu Không", đoạn thứ tư nói "Nón tuyết giày hoa, ôm cây đợi thỏ", là tinh thần Bát-nhã của Lục Tổ. Các pháp hư giả như nón tuyết, như đôi giày
bằng hoa, tạm có rồi tan mất, mới thấy đẹp rồi héo xàu, có
gì lâu bền. Nếu chấp giữ nó là người ngu, như kẻ "ôm cây đợi thỏ". Toàn thể pháp đối đãi đều không thật, do phương tiện bày lập, giống như dây
sắn dây bìm, một phen cắt đứt chúng mới là an vui tự tại.
Ðấy là tinh thần hai câu kết của bài kệ "Cắt đứt sắn bìm, đó đây vui thích". Vừa dấy niệm là đối đãi, vừa thốt lời là đối đãi, nếu dứt hết đối đãi thì còn
niệm nào để khởi, còn lời gì để nói. Ðây là hằng sống thật
với thiền.
Phần sau ở hai câu kệ "Trong
nhà có báu thôi tìm kiếm. Ðối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền", là hình ảnh Lục Tổ thốt lên "Ðâu ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh!..." Thấu triệt tánh mình như thấy hòn ngọc quí vô giá có sẵn trong nhà, còn gì phải
tìm kiếm đâu xa. Thấy tánh mình thanh tịnh, chẳng sanh chẳng
diệt, so với thân vô thường tạm bợ và tâm vọng tưởng hư ảo
thì thân tâm này còn có giá trị gì. Trong không chấp thân,
không chấp vọng tưởng làm mình, ngoài đối cảnh không còn
dính mắc, chính đây là chủ yếu của Thiền tông, cũng là cội
nguồn của Phật pháp. Ở đây chúng tôi lấy "Ðối cảnh không tâm" làm tiêu chuẩn tu hành. Không tâm là không tâm vọng tưởng chạy đuổi theo ngoại
trần, chớ chẳng phải không tâm là vô tri vô giác như cây
gỗ. Không tâm hư ảo sanh diệt mà vẫn có tâm hằng giác hằng
tri, bất sanh bất diệt. Ðây là chỗ giải thoát sanh tử của
người tu Phật.
Nhị Tổ Huệ Khả sau khi ngộ đạo vẫn
được Tổ Ðạt-ma giới thiệu bốn quyển kinh Lăng-già để ấn tâm.
Lục Tổ Huệ Năng nghe giảng kinh Kim Cang ngộ đạo. Thế là
đủ minh chứng Thiền tông không rời Kinh, vì Thiền là tâm
của Phật, Kinh là miệng của Phật. Ðức Phật tâm miệng không
khác thì Thiền và Giáo làm sao tách rời được. Cho nên chúng
tôi chủ trương "Thiền, Giáo đồng hành".
Ðể thấy rõ nét lối dung hợp pháp tu
qua ba vị Tổ trên, chúng tôi cô đọng lại bằng những lối tu: